Dọc đường

Thư tiên đoán “mình sẽ hi sinh” của một liệt sỹ

Tôi sẽ nói về bức thư tiên đoán kỳ lạ đó. Nhưng trước hết hãy nói về tình yêu của họ. Đó là một mối tình đẹp nhất trong chiến tranh mà tôi từng biết. Mối tình ấy không trọn vẹn, người đàn ông ấy không trọn lời hứa nhưng một người vợ đã trọn đời đợi mong.

Chị Xơ bên ban thờ chồng.

Từ một bức thư tiên đoán linh thiêng

Khi vào thăm khu di tích thành cổ Quảng Trị, một cán bộ ở đây cho chúng tôi đọc một bức thư. Đó là một bức thư tiên đoán kỳ lạ, bức thư đã khiến tôi và bao nhiêu người khác rơi lệ. Bức thư của một người lính đã hi sinh được anh viết trước khi mất 3 tháng giữa những ngày bom đạn khốc liệt nhất ở Quảng Trị.

Anh là liệt sỹ Lê Văn Huỳnh ở xã Lê Lợi (Kiến Xương – Thái Bình). Bức thư đó anh viết để gửi cho người mẹ già đang mong móng đợi anh và cho người vợ cưới được 7 ngày đã phải xa chồng. Bức thư đó, anh viết:

“Quảng Trị, ngày 11/9/1972

Toàn gia đình kính thương!

Hôm nay con ngồi đây biên vài dòng chữ cuối cùng, phòng khi đã “đi nghiên cứu bí mật trong lòng đất”, thì gia đình khỏi thấy đó là điều đột ngột.

Mẹ kính mến! Thư này tới mẹ là con đã đi xa rồi. Chắc mẹ đau buồn lắm. Lớn lên  trong vòng tay mẹ từ khi còn trứng nước, chưa kịp báo đáp công ơn sinh thành, giờ con đi xa là để lại cho mẹ nỗi buồn nhất trên đời.

Con rất hiểu đời mẹ đã đau khổ nhiều, nhưng mẹ hãy lau nước mắt để sống đến ngày đón mừng chiến thắng. Con đi, mẹ ở lại trăm tuổi bạc đầu. Coi như con lúc nào cũng nằm bên mẹ. Coi như con đã sống trọn đời cho Tổ quốc mai sau…

Em yêu thương. Mọi lá thư đến với em đều là nguồn động viên em khi xa anh. Song, lá thư này đến tay em sẽ là nỗi buồn lớn nhất. Chúng ta sống với nhau chưa được bao lâu, thì chiến tranh đã cướp đi của em biết bao yêu thương, trìu mến. Người ta lấy chồng thì được chiều chuộng mọi điều. Em chưa được hưởng diễm phúc ấy đã phải xa anh….

Anh biết em sẽ không đọc nổi lá thư này, nhưng em hãy gạt nước mắt đi cho đời trẻ lại. Anh chỉ mong em khỏe, yêu đời, nếu có điều kiện, hãy cứ đi bước nữa, vì em còn trẻ lắm. Anh chỉ mong em sẽ luôn nhớ đến anh và hãy thắp hương cho anh vào ngày giỗ anh. Hãy là người con dâu hiếu thảo của mẹ, là người em ngoan của của các anh chị anh…

Sau này hòa bình lập lại, nếu có điều kiện vào Nam, hãy mang hài cốt anh về. Đường đi như sau: Đi tàu vào thị xã Quảng Trị, qua sông Thạch Hãn là nơi anh đã hi sinh khi đưa hàng qua sông vào ngày 2/1/1973. Từ thị xã qua cầu, ngược trở lại, hỏi thăm thôn Nhan Biều. Em cứ đi đến đó, tính xuôi theo dòng nước thì ở cuối làng. Đến đó sẽ tìm thấy tấm bia ghi tên anh đục trên mảnh tôn. Mộ anh ở đó… Em sẽ đọc lá thư này cho mọi người trong gia đình nghe trong buổi lễ truy điệu anh. Cho anh gửi lời chúc sức khỏe tất cả những người quen thuộc trên quê hương trong buổi truy điệu lịch sử này….

Chào mẹ, chào em, chào tất cả gia đình và làng xóm quê hương.

Ký tên

Lê Văn Huỳnh…..”.

Lá thư này được liệt sỹ Lê Văn Huỳnh, chàng sinh viên năm cuối trường Đại học Xây dựng viết vào một ngày tháng 9/1972, trước ngày anh hi sinh hơn 3 tháng. Không ai hiểu tại sao anh biết trước cái chết của mình, biết tường tận nơi mình sẽ nằm xuống…

Bức thư tiên đoán của liệt sỹ Huỳnh.

Đến mối tình đẹp thời chiến

Nhiều người nói với tôi rằng, anh Huỳnh đã biết trước cái chết đó và chọn nó. Nhưng tôi nghĩ rằng, anh đã biết trước cái chết đó và dấn thân vào nó nhưng không phải anh chọn cái chết đó. Bởi đơn giản rằng, anh chọn lý tưởng sống như chính lời anh nói “chết cho Tổ quốc mai sau”.

Tôi quyết định tìm về Thái Bình để gặp người “phụ nữ đợi chờ” trong bức thư. Người đàn bà trong ngôi nhà tình nghĩa mà ánh mắt vẫn sáng trong như ngọc. Ánh mắt ấy vẫn long lanh lẽ nào để đợi chờ một điều gì đó trong vô vọng.

Người phụ nữ ấy tên là Đặng Thị Xơ – người cùng xã với anh Huỳnh. Mối tình đẹp của hai người đã trở thành huyền thoại ở xã Lê Lợi cho đến ngày hôm nay. Ngày ấy, chàng sinh viên ĐH Xây dựng vừa đẹp trai lại thông minh phải lòng một cô gái trẻ đẹp nhất làng.

Trong những người đàn ông theo đuổi chị, chị chỉ yêu và chọn anh. Hai người yêu nhau khi anh còn là sinh viên trường Xây dựng. Gia đình hai bên bao nhiêu lần giục cưới nhưng chị đều lần nữa vì sợ ảnh hưởng đến việc học hành của anh.

Tết dương lịch năm 1972, anh từ Hà Nội trở về thăm nhà và thông báo với chị: anh sắp lên đường nhập ngũ. Vậy là họ quyết định cưới nhau trong vài ngày nghỉ ngắn ngủi đó.

Một đám cưới nho nhỏ nhưng ấm cũng diễn ra vào ngày 2/1/1972. Sau ngày cưới, anh được ở nhà 3 ngày rồi tiếp tục lên trường. Tết Nguyên đán năm đó, anh được nghỉ và về nhà thêm 3 ngày nữa là 6. Trước ngày lên đường nhập ngũ, anh tranh thủ thăm nhà được 1 ngày rồi vĩnh viễn không bao giờ trở về. Tính từ ngày cưới cho đến lúc anh hi sinh, vợ chồng anh chị ở bên nhau trọn vẹn được 7 ngày, 7 đêm.

Yêu sao cho biết đêm dài

Lần cuối cùng gặp nhau, anh đã nắm tay chị dặn dò: “Mình đã là vợ chồng. Anh đi chiến đấu, sau này ngộ nhỡ anh trở về không lành lặn, xin em đừng hắt hủi anh, em nhé”. Chị nghe anh nói mà ứa nước mắt: “Dù anh có thế nào đi chăng nữa, em vẫn là vợ của anh trọn đời”.

Nhưng chị không bao giờ ngờ rằng, ngay cả việc được đón anh trở về, dù không lành lặn, cũng trở thành một ước mơ quá đỗi xa vời đối với cuộc đời chị. Sau ngày nhập ngũ, anh theo đơn vị vào chiến trường Quảng Trị, chiến trường khốc liệt nhất những năm 1972 – 1973. Và anh đã mãi mãi nằm lại nơi đó, không bao giờ trở về như anh đã hứa.

Trong những lá thư anh gửi về từ chiến trường, bao giờ cũng có một phần gửi mẹ, một phần gửi cho các anh chị trong nhà, một phần viết riêng cho chị. Chị nhận được thư anh đều đặn mỗi tháng. Nhưng sau lá thứ tháng 12/1972, ông bưu tá vẫn đạp xe mang thư về làng không bao giờ dừng lại ở trước cửa nhà chị nữa. Từ đó, chị mất tin anh.

Trái tim người vợ mách bảo chị về những điều chẳng lành, những điều mà chị không dám nói ra với bất cứ ai nhưng vẫn hiểu nó đang ngày càng trở nên hiện thực đối với cuộc đời chị.

7 ngày làm vợ, cả đời đợi mong.

Sau Tết Nguyên đán năm đó thì giấy báo tử của anh về đến gia đình. Sợ chị không chịu nổi cú sốc đó, nên người chị dâu khi đó đang làm ở xã, đã xin hoãn báo tử 3 tháng. Đến tháng 5/1973, giấy báo tử mới chính thức được gửi về nhà chị, cùng toàn bộ quân tư trang của anh. Anh hy sinh vào đúng ngày 2/1/1973, đúng ngày kỉ niệm tròn 1 năm ngày cưới.

Ngày 2/1/1972 chị là cô dâu đẹp và hạnh phúc nhất

Ngày 2/1/1973 anh trở thành liệt sỹ. Và những ngày 2/1 sau này là những ngày chị buồn nhất.

Bức thư chị nhận được như lời trăng trối cuối cùng để tìm hài cốt anh. Nhưng mãi đến năm 2002, chị mới có thể lên đường và đúng như bức thư anh viết, mộ anh ở đó, ở thôn Nhan Biều, trên mộ có một tấm tôn ghi rõ tên anh: Liệt sỹ Lê Văn Huỳnh.

“Tôi ôm hài cốt anh, bao nhiêu năm xa cách, tôi lại được ôm anh. Chỉ có điều, tôi khóc nhiều hơn, còn anh thì lặng lẽ. Tôi biết rằng, yêu anh – yêu một người chiến sỹ, yêu một liệt sỹ là chấp nhận sống cuộc đời chờ đợi, cuộc sống của vọng phu không hóa đá”.

Trần Hòa

BẢN DESKTOP