Dữ liệu y khoa

Phân biệt giữa viêm não mủ và viêm não do virus Herpes simplex

  • Tác giả : Phạm Hằng
(khoahocdoisong.vn) - Bệnh viêm não do virus Herpes simplex là một bệnh nhiễm trùng thần kinh cấp tính, gây hoại tử kèm theo xuất huyết nhu mô não.

Bệnh viêm não do virus Herpes simplex là một bệnh nhiễm trùng thần kinh cấp tính, gây hoại tử kèm theo xuất huyết nhu mô não. Người bệnh cần phát hiện sớm, điều trị kịp thời nếu không sẽ có nhiều biến chứng nguy hiểm.

Viêm não do virus Herpes simplex khởi phát đột ngột

Bệnh biểu hiện bằng sốt cao, co giật, rối loạn ý thức và hôn mê, có nguy cơ tử vong cao hoặc để lại di chứng nặng nề. Tuy nhiên, nếu được chẩn đoán sớm, điều trị bằng thuốc đặc hiệu và chăm sóc tích cực, người bệnh thường có tiên lượng tốt. Bệnh thường xuất hiện tản phát, không mang tính chất mùa, dịch.

Căn nguyên gây bệnh là virus Herpes simplex (HSV) thuộc họ Herpeviridae, gồm 2 typ: HSV-1 (> 95% số ca bệnh) và HSV-2 (< 5% số ca bệnh). Bệnh viêm não có thể xuất hiện do nhiễm HSV tiên phát hoặc do HSV tồn tại tiềm tàng trong cơ thể tái hoạt động và xâm nhập vào hệ thần kinh trung ương gây nên.

Bệnh thường khởi phát đột ngột, cấp tính bằng sốt cao, đau đầu, sau đó xuất hiện co giật, thay đổi tính cách, mất trí nhớ và hôn mê. Các dấu hiệu thần kinh khu trú gợi ý tổn thương thùy thái dương và thùy trán não. Viêm não có thể đi kèm viêm màng não với các triệu chứng nôn, cứng gáy, dấu hiệu Kernig dương tính.

Chẩn đoán phân biệt với viêm màng não mủ

Trong viêm màng não mủ, bệnh cũng diễn biến cấp tính: có sốt, và có thể đi kèm với rối loạn ý thức, tương tự như viêm não do HSV. Dịch não tủy trong viêm màng não mủ thường đục như nước vo gạo, có protein tăng cao (thường > 1 g/L), đường giảm, tế bào tăng cao (vài trăm đến hàng chục nghìn tế bào/mm3), chủ yếu là bạch cầu đa nhân trung tính. Soi và cấy dịch não tủy cho phép xác định vi khuẩn gây bệnh.

Trong viêm não-màng não do các virus khác (viêm não Nhật Bản, các loại Enterovirus, ...), bệnh có thể có diễn biến tương tự như viêm não do HSV; biến đổi dịch não tủy không khác biệt so với viêm não do HSV. Tổn thương não lan tỏa trên phim cộng hưởng từ thường gặp trong các viêm não do các virus khác, trong khi tổn thương trong viêm não do HSV có ưu thế ở thùy trán và thùy thái dương. Xét nghiệm PCR đặc hiệu cho các virus viêm não Nhật Bản, Enterovirus có giá trị chẩn đoán các căn nguyên này.

Người bệnh viêm não do HSV được điều trị sớm bằng acyclovir tĩnh mạch thường tiến triển tốt dần, sốt giảm dần và nhiệt độ trở về bình thường trong 3-5 ngày, ý thức cải thiện dần. Một số người bệnh vẫn có di chứng về thần kinh sau điều trị, nhất là người > 50 tuổi. Các di chứng có thể gặp bao gồm động kinh, sa sút trí tuệ, giảm trí nhớ....

Ngược lại, người không được điều trị đặc hiệu bằng thuốc acyclovir hoặc điều trị muộn có tỷ lệ tử vong cao, hoặc để lại di chứng thần kinh nặng nề nếu sống sót.  Ngoài ra, người bệnh viêm não do HSV trong giai đoạn đầu cần được điều trị và chăm sóc tại khoa điều trị tích cực; các chức năng sống như hô hấp, tuần hoàn cần được theo dõi chặt chẽ và can thiệp khi cần thiết. Các điều trị hỗ trợ bao gồm: hạ sốt, chống phù não, corticoid, an thần và chống co giật, kháng sinh chống bội nhiễm, điều chỉnh cân bằng nước điện giải, bảo đảm hô hấp và tuần hoàn.

TS. Vũ Viết Sáng (Viện Lâm sàng các bệnh truyền nhiễm - Bệnh viện TWQĐ 108)

Phạm Hằng

BẢN DESKTOP