Y học và đời sống

Nhân trần cao thang trị ung thư gan đau nhiều

Sự phối hợp giữa hai bài thuốc độc đáo của cổ phương: “nhân trần cao thang và long đởm tả cân thang” tạo nên một phương dược hữu hiệu cho những người bị ung thư gan có u cục và đau tức nhiều.

Ảnh minh họa

Ung thư gan nguyên phát là một bệnh ác tính đường tiêu hóa thường gặp, đứng hàng thứ 5 trong số các loại ung thư trên toàn cầu, gây tử vong hơn 1 triệu người mỗi năm.

Trong Đông y, ung thư gan thuộc phạm vi nhiều chứng bệnh như: Trưng hà, tích tụ, hoàng đản, cổ trướng, hiếp thống, can tích, phì khí, bĩ khí, tích khí…và cũng được chẩn đoán và trị liệu bằng nhiều phương pháp khác nhau.

Đông y cho rằng nguyên nhân gây bệnh ung thư gan cũng không nằm ngoài các nhân tố như tà độc nội xâm, thất tình nội thương, ẩm thực bất điều, lao lực quá độ… khiến cho tạng phủ khí huyết khuynh hư, tỳ hư bất vận, khí trệ, huyết ứ, thấp nhiệt, đàm độc hỗ kết ở can (gan) mà phát sinh thành bệnh.

Cơ chế bệnh sinh liên quan mật thiết với hai tạng can và tỳ, bệnh diễn biến lâu ngày ảnh hưởng đến công năng của các tạng phủ khác như: đởm, vị, thận…

Ung thư gan là căn bệnh khó chữa, bệnh tình phức tạp diễn biến nhanh chậm khôn lường, tiên lượng khó khăn. Bởi vậy, việc trị liệu phải biện chứng hết sức chuẩn xác, tùy theo biểu hiện, diễn biến bệnh mà dùng thuốc cho linh hoạt.

Đối với những trường hợp: hạ sườn phải có u cục, ấn đau tức nhiều, vàng da, triều nhiệt, môi khô miệng khát, tâm phiền dễ cáu giận, ngực bụng đầy tức, chất lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng dính, mạch hoạt hoặc huyền hoạt, y học cổ truyền xếp vào thể “thấp nhiệt uất kết”. Phép chữa: thanh nhiệt lợi thấp, sơ can lợi đởm bằng phương“nhân trần cao thang hợp long đởm tả can thang” gia giảm độc đáo.

Bài thuốc gồm: nhân trần 50g, sinh đại hoàng 15g, chi tử 25g, long đờm thảo 15g, hoàng cầm 10g, sài hồ 10g, sinh địa 10g, xa tiền tử 5g, trạch tả 10g, mộc thông 10g, cam thảo 3g, đương quy 3g, sắc uống mỗi ngày 1 thang.

Trong bài, nhân trần thanh nhiệt lợi thấp và thoái hoàng là chủ dược; Chi tử và long đởm thảo thông lợi tam tiêu, thanh nhiệt tả hỏa; Sinh đại hoàng thải tiết ứ nhiệt; Xa tiền tử, mộc thông và trạch tả thanh lợi thấp nhiệt; Sinh địa và đương quy tư dưỡng can huyết giúp khử tà mà không thương chính; Cam thảo hòa trung giải độc.

Phương thang trên dùng lâu ngày dễ làm thương tổn can âm và vị âm, vậy nên đến một giai đoạn nhấn định cần giảm nhân trần, chi tử và đại hoàng còn một nửa, gia thêm sinh miết giáp để dưỡng can âm và tiêu bĩ tích. Nếu đau nhiều có thể gia: hậu phác 10g, thủy hồng hoa tử 30g để  hành khí chỉ thống và tiêu bĩ.

ThS Hoàng Khánh Toàn (Chủ nhiệm khoa Y học cổ truyền, bệnh viện TWQĐ 108)

BẢN DESKTOP