Dữ liệu y khoa

HPV và ung thư cổ tử cung

Human Papilloma Virus (HPV) thuộc nhóm Papova (papillome polyform vacuolization), có hình cầu, đường kính 55nm, bên trong chứa chuỗi DNA. HPV có hơn 100 typ, đa số không gây bệnh, chỉ có khoảng 30 typ chịu trách nhiệm các bệnh ở biểu mô da và màng nhầy.

Nhóm virus gây ung thư cổ tử cung

Tuỳ vào khả năng gây ung thư hay không mà người ta chia các typ HPV ra làm 2 nhóm:

Một là HPV nguy cơ thấp gây ra mụn cóc ở bàn tay, bàn chân, mồng gà ở vùng hậu môn-sinh dục, u nhú đường hô hấp hay tăng sản biểu mô khoang miệng (thường gặp là HPV typ 6,11).

HPV nguy cơ cao hiện có khoảng 15 typ gây ung thư,  đặc biệt HPV 16,18 gây ung thư cổ tử cung.

Cho đến nay, các nhà khoa học đã xác nhận HPV là nguyên nhân hàng đầu  của ung thư cổ tử cung (99,7% các trường hợp ung thư cổ tử cung đều có sự hiện diện của nhóm HPV nguy cơ cao).

HPV chủ yếu lây truyền qua đường tình dục. Nhiễm HPV là một ntrong những bệnh lý lây truyền qua đường tình dục phổ biến  nhất và dễ dàng nhất. Nguy cơ nhiễm HPV cao nhất khi có tiếp xúc tình dục sớm.

Vị trí HPV xâm nhập và khu trú đầu tiên là vùng thượng bì chủ yếu ở lớp biểu mô da và niêm mạc, nhất là những vùng niêm mạc ẩm ướt, nhầy.

Tỷ lệ lây truyền HPV giữa nam và nữ qua giao hợp thay đổi từ 5%- 100%, trung bình khoảng 40%. Tuy  nhiên HPV rất đề kháng với nhiệt và khi bị làm khô.

Do đó, HPV còn có những đường lây truyền không qua tình dục  như qua các đồ vật dụng cụ cắt móng tay-móng chân, kìm bấm sinh thiết, đồ lót…

Đặc biệt HPV có thể lây truyền dọc từ mẹ sang con trong lúc sinh gây ra đa bướu đường hô hấp.

Dấu hiệu khi nhiễm HPV

Nhiễm HPV nguy cơ thấp gây ra các tổn thương mụn cóc ở bàn tay, bàn chân, mồng gà vùng hậu môn- sinh dục (hơn 75% bạn tình bị mồng gà khi tiếp xúc). Mồng gà có thể gây ngứa, bỏng rát, chảy máu, đau.

Nhiễm HPV nguy cơ cao thường không có biểu hiện lâm sang rõ ràng, chỉ phát hiện được nhờ vào xét nghiệm tìm HPV.

Trên thế giới có khoảng  700 triệu người bị nhiễm HPV, tần suất mắc bệnh thay đổi theo từng quốc gia và theo nhóm tuổi.

Độ tuổi có quan hệ tình dục có khả năng mắc bệnh cao nhất. Tỷ lệ nhiễm HPV có liên quan đến tỷ lệ ung thư cổ tử cung.

Một nghiên cứu trên 1.050 phụ nữ bị ung thư cổ tử cung ở 22 quốc gia, gần 90% số này do nhiễm HPV typ 16, 18.

Hầu hết bệnh nhân nhiễm HPV thường không có triệu chứng, do đó bệnh dễ lây truyền khi quan hệ tình dục mà không được bảo vệ.

Bình thường, nhiễm HPV sẽ tự khỏi trong vòng 1-2 năm nhờ khả năng miễn dịch của cơ thể. Nhưng có một số trường hợp đặc biệt :

1/ Nhiễm HPV typ 16, 18:

Gây tân sinh biểu mô cổ tử cung (cervical intraepithelial neoplasia, CIN) đồng nghĩa với loạn sản cổ tử cung hay ung thư.

Phát hiện khi làm xét nghiệm phết tế bào cổ tử cung (Pap smear) để tìm các tế bào bất thường. Có nhiều mức độ :

Mức độ nhẹ (CIN 1): Có thể tự khỏi trong vài tháng hay đốt điện. Đôi khi có thể phát triển thành ung thư cổ tử cung tại chỗ trong 6 năm.

Mức độ trung bình ( CIN 2): Có thể phát triển thanh ung thư  cổ tử cung trong vòng 3 năm.

Mức độ nặng (CIN 3): Có thể phát triển thành ung thư cổ tử cung trong vòng 1 năm.

2/Nhiễm HPV typ 6, 11: 

90% gây sùi mồng gà ở âm hộ, âm đạo, cổ tử cung. Một số ít trường hợp lây nhiễm từ mẹ sang con khi sinh qua ngã âm đạo, gây u nhú đường hô hấp (bé khó thở) hay u nhú thanh quản (bé khóc khàn giọng).

3/Ung thư cổ tử cung:

Rất thường gặp ở phụ nữ và gây tử vong cao, ước tính khoảng 1,4 triệu trường hợp trên toàn cầu, trong đó 80% xảy ra ở các nước đang phát triển.

Theo điều tra của BV Ung bướu TP HCM, ung thư cổ tử cung đứng hàng thứ 2 trong 10 loại ung thư thường gặp ở phụ  nữ, chỉ đứng sau ung thư vú.

BS. Ngô Văn Tuấn (Phòng khám đa khoa Lý Nam Đế – Huế)

BẢN DESKTOP