KINH TẾ

Giá cả thị trường hàng hóa ngày 21/4: Gạo, xăng thép, tiêu... có biến động

  • Tác giả : Tuấn Huy (T/H)
Tin tức giá cả thị trường hàng hóa hôm nay, các loại mặt hàng có nhiều biến động, giá thép trong nước giảm sâu đến 1.1 triệu đồng/tấn; Giá lúa tiếp đà tăng; Giá cà phê trong nước chạm mốc 51.100 đồng/kg...

Giá tiêu

Hôm nay 21/4 tại thị trường trong nước đồng loạt điều chỉnh tăng 500 đồng/kg tại các vùng trọng điểm. Theo đó, tại Gia Lai, giá tiêu hôm nay được thương lái thu mua ở mức 64.000 đồng/kg, tăng 500 đồng/kg. Tại tỉnh Đắk Lắk, Đắk Nông, giá tiêu hôm nay được thu mua với mức 65.000 đồng/kg, tăng 500 đồng/kg.

Tương tự, tại Đông Nam bộ, giá tiêu cũng tăng 500 đồng/kg. Hiện giá tiêu hôm nay tại Bà Rịa Vũng Tàu đang được thương lái thu mua ở mức 67.000 đồng/kg, tăng 500 đồng/kg. Tại Bình Phước và Đồng Nai duy trì ổn định ở mức 66.000 đồng/kg, tăng 500 đồng/kg.

Giá tiêu hôm nay tiếp tục điều chỉnh tăng 500 đồng/kg ở các địa phương so với cùng thời điểm hôm qua. Sau 2 phiên điều chỉnh, giá tiêu trong nước đã tăng 1.000 đồng/kg so với đầu tuần. Theo đánh giá của các doanh nghiệp, thị trường đang có biến động sau thời gian dài trầm lắng, nhu cầu mua tăng trong khi nông dân giữ hàng đã đẩy thị trường tăng nhẹ.

Trên thị trường thế giới, kết thúc phiên giao dịch đầu tuần, Cộng đồng Hồ tiêu Quốc tế (IPC) IPC giữ nguyên giá tiêu tại thị trường các nước. Theo đó, IPC niêm yết giá tiêu đen Lampung (Indonesia) chốt tại 3.540 USD/tấn; giá tiêu đen Brazil ASTA 570 ở mức 2.950 USD/tấn; giá tiêu đen Kuching (Malaysia) ASTA giữ mức 4.900 USD/tấn.

Giá tiêu trắng Muntok 6.002 USD/tấn; giá tiêu trắng Malaysia ASTA vẫn ở 7.300 USD/tấn.

Giá tiêu đen Việt Nam giao dịch ở 3.225 USD/tấn với loại 500 g/l, loại 550g/l mức 3.275 USD/tấn; giá tiêu trắng ở mức 4.780 USD/tấn.

Theo các chuyên gia, quý I năm nay, giá xuất khẩu bình quân hạt tiêu của Việt Nam đạt mức 3.064 USD/tấn, giảm 34,3% so với cùng kỳ. Tính riêng tháng 3, giá xuất khẩu bình quân hạt tiêu của Việt Nam đạt mức 2.978 USD/tấn, giảm 0,9% so với tháng 2 và giảm 36,7% so với tháng 3/2022.

Về chủng loại xuất khẩu 2 tháng đầu năm 2023, Việt Nam chủ yếu xuất khẩu hạt tiêu đen, tỷ trọng chiếm 81,2% tổng lượng và chiếm 74,3% tổng kim ngạch xuất khẩu hạt tiêu của cả nước. Do đó, tăng trưởng xuất khẩu hạt tiêu đen đóng góp phần lớn vào sự tăng trưởng của toàn ngành. Tương tự, xuất khẩu hạt tiêu trắng xay tăng trưởng 2 con số cho thấy ngành hàng đã chú trọng hơn đến đa dạng sản phẩm. Tuy nhiên, lượng và trị giá xuất khẩu hạt tiêu chế biến vẫn còn ở mức thấp, cần chú trọng đến phân khúc này trong thời gian tới.

Giá cà phê

Trong nước hôm nay 21/4 tăng 100 đồng/kg.

Cụ thể, giá cà phê nhân xô (cà phê nhân, cà phê nhân tươi) tại tỉnh Lâm Đồng hiện ở các huyện như Bảo Lộc, Di Linh, Lâm Hà được thu mua với giá từ 50.500 – 50.600 đồng/kg.

Giá cà phê tại tỉnh Gia Lai, tỉnh Kon Tum và tỉnh Đắk Nông, cà phê ở mức giá 51.000 đồng/kg.

Giá cà phê hôm nay tại tỉnh Đắk Lắk tăng 100 đồng/kg, tại huyện Cư M'gar giá cà phê hiện ở mức 51.000 đồng/kg. Còn tại huyện Ea H'leo, thị xã Buôn Hồ được thu mua cùng mức 51.100 đồng/kg.

Ảnh minh họa. - Ảnh: internet.

Ảnh minh họa. - Ảnh: internet.

Đối với giá cà phê thế giới, giá cà phê trên hai sàn quay đầu trở lại xu hướng giảm do Đồng USD tăng trở lại, cùng với đó là áp lực của giao hàng kỳ hạn tháng 5 cận kề.

Kết thúc phiên giao dịch gần nhất, giá cà phê Robusta trên sàn London giảm nhẹ sau ba phiên tăng liên tiếp. Kỳ hạn giao ngay tháng 5 giảm 16 USD, còn 2.452 USD/tấn và kỳ hạn giao tháng 7 giảm 5 USD, còn 2.381 USD/tấn, các mức giảm nhẹ. Khối lượng giao dịch duy trì rất cao trên mức trung bình.

Cùng tình trạng, giá cà phê Arabica trên sàn ICE US – New York tiếp tục sụt giảm. Kỳ hạn giao ngay tháng 7 giảm 3,45 cent, xuống 196.70 cent/lb và kỳ hạn giao tháng 9 giảm 3,45 cent, còn 193,75 cent/lb, các mức giảm rất đáng kể. Khối lượng giao dịch rất cao trên mức trung bình.

Theo báo cáo từ Tổng cục Hải quan, xuất khẩu cà phê nước ta nửa đầu tháng 4/2023 đã đạt 81.348 tấn (tương đương 1,355 triệu bao), đưa xuất khẩu cà phê 3,5 tháng đầu năm lên tổng cộng 634.023 tấn, giảm 4,32% so với cùng kỳ năm trước.

Giá dầu

Giá dầu thế giới sáng ngày 21/4 (theo giờ Việt Nam) cụ thể là: giá dầu thô WTI của Mỹ giảm 1,88 USD, xuống mức 77,86 USD/thùng, giá dầu Brent giảm 1,82 USD, xuống mức 81,56 USD/thùng.

Giá dầu giảm xuống mức thấp nhất trong khoảng 3 tuần do đồng đô la mạnh hơn và kỳ vọng tăng lãi suất vượt xa dự trữ dầu thô của Mỹ.

Giá xăng dầu trong nước

Giá bán lẻ xăng dầu trong nước sáng ngày 21/4 được áp dụng theo phiên điều chỉnh ngày 11/4 của Liên Bộ Tài chính – Bộ Công Thương:

Cụ thể, giá xăng E5 RON 92 tăng 1.072 đồng/lít, lên 23.173 đồng/lít; xăng RON 95 tăng 1.120 đồng/lít, lên mức 24.245 đồng/lít.

Tương tự, giá dầu diesel tăng 719 đồng/lít lên 20.149 đồng/lít; giá dầu hỏa tăng 702 đồng/lít lên 17.739 đồng/lít; giá dầu mazut tăng 765 đồng/kg lên 15.194 đồng/lít.

Tại kỳ điều hành này, Liên Bộ Tài chính – Bộ Công Thương quyết định trích lập 150 đồng/lít đối với xăng E5 RON 92, trích lập 300 đồng/lít với xăng RON 95, dầu diesel và dầu hỏa. Cơ quan quản lý quyết định chỉ chi quỹ bình ổn 300 đồng/kg với mặt hàng dầu mazut.

Giá lúa gạo

Hôm nay 21/4 tại khu vực Đồng bằng sông Cửu Long điều chỉnh tăng với lúa OM 18. Theo đó, giá lúa OM 18 đang được thương lái thu mua ở mức 6.500 – 6.600 đồng/kg, tăng 100 đồng/kg.

Với các chủng loại còn lại, giá đi ngang. Cụ thể, lúa Nếp tươi An Giang 6.000 – 6.200 đồng/kg; Đài Thơm 8 đang được thương lái thu mua ở mức 6.800 – 7.000 đồng/kg; lúa IR 504 đang được thương lái thu mua tại ruộng ở mức 6.200 – 6.400 đồng/kg; Nàng hoa 9 ở mức 6.400 – 6.600 đồng/kg; OM 5451 duy trì ở mức 6.400 – 6.500 đồng/kg; lúa OM 18 ở mức 6.600 – 6.800 đồng/kg; Nếp khô Long An 9.000 – 9.200 đồng/kg, nếp khô An Giang giá dao động 8.400 – 8.600 đồng/kg và lúa IR 504 khô duy trì ở mức 6.500 đồng/kg; nếp tươi Long An đứng ở mức 6.500 – 6.700 đồng/kg.

Ảnh minh họa. - Ảnh: Công thương.

Ảnh minh họa. - Ảnh: Công thương.

Với mặt hàng gạo, giá gạo nguyên liệu, thành phẩm tiếp tục xu hướng giảm. Theo đó, giá gạo nguyên liệu giảm 50 đồng/kg xuống mức 9.400 đồng/kg. Tương tự, giá gạo thành phẩm cũng giảm 50 đồng/kg xuống còn 10.600 – 10.650 đồng/kg.

Với mặt hàng phụ phẩm, giá tấm IR 504 dao động quanh mốc 9.200 đồng/kg. Trong khi đó, cám khô giảm 100 đồng/kg xuống còn 7.350 đồng/kg.

Tại chợ lẻ, giá gạo duy trì ổn định sau phiên điều chỉnh. Theo đó, gạo thường còn 11.000 – 12.000 đồng/kg; gạo thơm Jasmine 14.000 – 15.000 đồng/kg; gạo Sóc thường 15.000 đồng/kg; nếp ruột 16.000 – 18.000 đồng/kg; Gạo Nàng Nhen 22.000 đồng/kg; Gạo trắng thông dụng 14.500 đồng/kg; Nàng Hoa 18.500 đồng/kg; Sóc Thái 18.000 đồng/kg; Gạo thơm Đài Loan 20.000 đồng/kg; Gạo Nhật 22.000 đồng/kg; Cám 7.500 – 8.000 đồng/kg; Gạo thơm Thái hạt dài duy trì 18.000 – 19.000 đồng/kg và Hương Lài 19.000 đồng/kg.

Theo các doanh nghiệp, hôm nay lượng gạo về ít, các bến vắng gạo. Giá gạo bình ổn so với hôm qua. Giá lúa Đông Xuân và Hè Thu các loại vẫn bình ổn, neo ở mức cao. Lúa tươi dần cạn nguồn. Nhu cầu mua lúa khô chưa nhiều, nông dân đòi giá cao. Nguồn lúa Campuchia bắt đầu về lại, giá lúa cao, giao dịch khá.

Trên thị trường thế giới, giá chào bán gạo xuất khẩu của Việt Nam hôm nay chững lại và đi ngang sau phiên điều chỉnh tăng. Theo đó, gạo 5% tấm đang ở mức 473 USD/tấn; gạo 25% tấm 453 USD/tấn.

Theo các doanh nghiệp xuất khẩu gạo sẽ tiếp tục thuận lợi trong thời gian tới do nhu cầu từ các thị trường lớn đang tăng lên. Bên cạnh đó, giá gạo cũng được kỳ vọng sẽ tăng ở cả trong nước và trên thị trường xuất khẩu.

Với thị trường Trung Quốc, sau khi mở cửa trở lại nhu cầu gạo nếp và các loại gạo chất lượng cao của nước này tăng rất mạnh.

Trong khi đó, nhiều dự báo cho thấy hiện tượng thời tiết El Nino sẽ xuất hiện vào nửa cuối năm 2023, làm gia tăng rủi ro về nguồn cung lúa gạo tại khu vực châu Á. Điều này khiến các quốc gia trong khu vực như Philippines hay Indonesia phải tăng cường kho dự trữ quốc gia.

Giá thép

Hôm nay 21/4 ghi nhận nhiều thương hiệu thông báo giảm giá thép xây dựng với mức giảm từ 130.000 - 1,12 triệu đồng/tấn.

Đây đã là phiên giảm thứ 3 liên tiếp từ 8/4 đến nay, sau khi thép trong nước đã có phiên tăng liên tiếp từ đầu năm.

Theo SteelOnline, Hòa Phát miền Bắc giảm 200.000 đồng/tấn đối với thép cuộn CB240 xuống còn 15 triệu đồng/tấn, loại D10 CB300 giảm 130.000 đồng/tấn xuống còn 15,45 triệu đồng/tấn. Cả hai loại giảm quanh mức 1%.

Hòa Phát khu vực miền Trung giảm 200.000 đồng/tấn với thép cuộn CB240 xuống 14,95 triệu đồng/tấn và giảm 130.000 đồng/tấn với loại D10 CB300 xuống 15,35 triệu đồng/tấn. Tại khu vực miền Nam, Hòa Phát giảm 170.000 đồng/tấn loại thép cuộn và 220.000 đồng/tấn với thép cây.

Thép Việt Ý giảm 300.000 đồng/tấn đối với thép cuộn CB240 xuống còn 15 triệu đồng/tấn và thép cây giảm 150.000 đồng/tấn xuống còn 15,25 triệu đồng/tấn, tương đương mức giảm lần lượt 1-2%.

Với thương hiệu Việt Đức, hai loại trên lần lượt giảm 200.000 đồng/tấn và 250.000 đồng/tấn xuống còn 14,95 triệu đồng/tấn và 15,35 triệu đồng/tấn.

Pomina Miền Trung giảm 1,12 triệu đồng/tấn đối với thép cuộn CB240 xuống còn 15,81 triệu đồng/tấn, tương đương mức giảm 6,6%. Loại thép cây D10 CB300 giảm 1,02 triệu đồng/tấn, tương đương 6%, xuống còn 15,86 triệu đồng/tấn.

Kyoei giảm 300.000 đồng/tấn đối với thép cuộn và 410.000 đồng/tấn đối với thép cây. Sau khi giảm, giá hai sản phẩm trên còn lần lượt là 14,98 triệu đồng/tấn và 15,38 triệu đồng/tấn.

Thép Miền Nam ghi nhận mức giảm 510.000 đồng/tấn đối với thép cuộn và 610.000 đồng/tấn đối với thép cây, tương đương giảm lần lượt 3,2-4%. Sau điều chỉnh, thép cuộn còn 15,22 triệu đồng/tấn và 15,43 triệu đồng/tấn.

Giá hiện tại của Việt Nhật là 15,12 triệu đồng/tấn đối với thép cây và 14,92 triệu đồng/tấn đối với thép cuộn, mức giảm lần lượt là 510.000 đồng/tấn và 660.000 đồng/tấn, tương đương giảm 3-4%.

Như vậy, giá thép của nhiều thương hiệu trong nước giảm ba lần liên tiếp sau 5 lần tăng. Lần giảm gần đây nhất là 12/4. Thép cuộn của Hòa Phát miền Bắc hiện thấp hơn đầu năm 20.000 đồng/tấn, còn thép cây cao hơn 530.000 đồng/tấn.

Sau 3 lần giảm liên tiếp, Hòa Phát miền Bắc ghi nhận tổng mức giảm là 960.000 đồng/tấn đối với thép cuộn, tương đương 6%. Đối với thép cây, tổng mức giảm là 540.000 đồng/tấn, tương đương 3,3%. Khác với các thương hiệu khác, Pomina giảm giá sản phẩm hai lần. Tổng mức giảm đối với cả thép cuộn và thép cây của Pomina quanh mức 10%.

Tại thị trường Trung Quốc, giá thép cây ngày 19/4 là 4.013 Nhân dân tệ/tấn (582 USD/tấn), thấp hơn đầu năm khoảng 1%. Còn cuộn cán nóng là 4.276 Nhân dân tệ/tấn (621 USD/tấn), tăng 1% so với đầu năm.

Diễn biến giảm của giá thép trong nước thời gian gần đây đúng như với nhận định của Hiệp hội Thép Việt Nam (VSA). VSA cho rằng, giá thép có thể sẽ còn giảm tiếp trong thời gian tới do giá nguyên vật liệu đi xuống.

Giá thép xây dựng giảm theo xu hướng của thế giới trong bối cảnh nhu cầu tiêu thụ thép yếu và không ổn định, các kỳ vọng về tác động tích cực từ thị trường thép Trung Quốc tới thị trường thép thế giới đã không diễn ra như mong đợi.

VSA đánh giá, giá phôi thép và nguyên vật liệu giảm là lý do để các doanh nghiệp sản xuất thép điều chỉnh giảm giá bán thép thành phẩm cho phù hợp với chi phí đầu vào. Ngoài việc giảm giá, nhiều nhà máy thông báo bảo lãnh giá nên trong trường hợp giá nguyên vật liệu chính cho sản xuất như thép phế phôi thép tiếp tục đi xuống, giá thép xây dựng có thể sẽ giảm nữa./.

Tuấn Huy (T/H)

BẢN DESKTOP