KINH TẾ

Chính sách tiền tệ trong dịch Covid-19: Chọn nới lỏng, hay siết chặt?

  • Tác giả : Đào Vũ
(khoahocdoisong.vn) - Đã có những ý kiến, phần nhiều là tiêu cực, về tác động của dịch Covid-19 tới ngành tài chính – ngân hàng và điều hành chính sách tiền tệ.

Cùng lúc hai áp lực

Một số báo cáo phân tích kinh tế gần đây sử dụng từ “leo thang” khi nói về lạm phát hai tháng đầu năm 2020. Từ “leo thang” từng được dùng, rất phổ biến, trong giai đoạn 2010-2011.

Theo Tổng cục Thống kê, tháng 1/2020, lạm phát của Việt Nam có mức tăng cao đột biến, cao nhất trong 7 năm qua. Tương ứng, lạm phát cơ bản cũng tăng mạnh.

Vẫn biết, năm nay Tết rơi vào tháng 1, yếu tố mùa vụ sẽ xuất hiện. Tuy nhiên, xu hướng tăng mạnh của lạm phát cơ bản đã xuất hiện từ tháng liền trước đó. Cộng thêm diễn biến khó lường của dịch bệnh Covid-19, dự báo tháng 2 này, lạm phát cũng sẽ tiếp tục thể hiện áp lực.

Vì vậy, xuất hiện ý kiến cho rằng nên thắt chặt chính sách tiền tệ để ngăn ngừa rủi ro bất ổn vĩ mô.

Ở khía cạnh khác, Việt Nam trong những năm qua đã đẩy mạnh kết nối thương mại quốc tế, tổng giá trị xuất khẩu và nhập khẩu/GDP chiếm tỷ lệ cao, khoảng 196,6%. Với việc đóng cửa một số cửa khẩu đến Trung Quốc, giao thương bị hạn chế ở mức độ nhất định, vừa làm giảm cầu tiêu thụ, vừa làm gián đoạn chuỗi cung ứng quan trọng… sẽ là thách thức lớn đối với tăng trưởng kinh tế.

Thực tế, nới lỏng chính sách tiền tệ mỗi khi kinh tế rơi vào nguy cơ suy giảm không phải là đề xuất quá bất ngờ. Nhiều nước trên thế giới cũng đang hành động theo hướng nới lỏng hết cỡ để đối phó với dịch bệnh.

Cụ thể, Chính phủ Singapore sẽ tung một gói ngân sách để hỗ trợ nền kinh tế, ước tính có thể lên tới 500 triệu USD. Đây là quốc gia tiếp theo trong khu vực châu Á dự kiến có ứng xử cụ thể bằng chính sách tiền tệ và tài khoá để ứng phó với nguy cơ suy giảm tăng trưởng. Trước đó, Trung Quốc và Thái Lan cũng đã giảm lãi suất, Malaysia xem xét đưa ra gói kích thích kinh tế, Nhật Bản cân nhắc gói hỗ trợ doanh nghiệp…

Tại Việt Nam, nhằm làm giảm các tác động của Covid-19 tới hoạt động sản xuất, kinh doanh, Ngân hàng Nhà nước đã sớm có văn bản định hướng xem xét cơ cấu lại nợ, giảm thời hạn trả nợ, miễn giảm lãi vay… theo quy định pháp luật hiện hành. Nhiều ngân hàng đã giảm lãi suất, miễn phí dịch vụ…. cho các đối tượng vay vốn

Tuy nhiên, không quá khó khi thấy chính sách tiền tệ của Việt Nam đang rơi vào thế khó, khi phải xử lý nguy cơ lạm phát tăng cao với áp lực nới lỏng quy định để giảm tác động từ dịch bệnh.

Mâu thuẫn đặt ra là, nếu thắt chặt chính sách để ngăn ngừa rủi ro vĩ mô, sẽ ảnh hưởng tới tăng trưởng kinh tế vốn chịu nguy cơ giảm phát do dịch bệnh. Không những thế, khi các quốc gia khác nới lỏng chính sách tiền tệ khiến các đồng tiền bị mất giá, đồng VND lại có xu hướng tăng giá sẽ làm mất lợi thế cạnh tranh xuất khẩu đang có.

Trái lại, nếu theo phương án nới lỏng tiền tệ, sẽ khuyến khích lạm phát tăng mạnh hơn, đình trệ kinh tế có nguy cơ bộc phát và kéo dài trong một số năm sau đó.

Ứng xử ra sao?

Nhìn lại vấn đề lạm phát tăng cao trong vài tháng qua, nguyên nhân được cho là từ các mặt hàng gồm thịt lợn, lương thực, thực phẩm tăng giá liên tục… Về thực chất, điều này phản ánh những tác động điển hình theo quy luật cung cầu.

Thông thường, tăng giá có hai yếu tố. Thứ nhất là tăng do nguồn cung giảm. Thứ hai, tăng giá do cầu nhiều, tiền thừa. Tại thời điểm hiện nay, câu chuyện tăng giá phần lớn xuất phát từ việc thiếu nguồn cung. Tức là, khi nguồn cung đủ thì giá sẽ xuống và giảm áp lực tăng lạm phát.

Về lo ngại VND có thể tăng giá nếu thực hiện chính sách tiền tệ siết chặt. Thực tế, dù Trung Quốc là nền kinh tế chịu thiệt hại nặng nhất từ dịch bệnh, nhưng đồng CNY cũng chỉ mất giá khoảng 0,34%, chốt tuần qua ở mức 6,987 CNY đổi 1 USD. Đồng bảng Anh GBP cũng hồi phục 1,2%, lên trên mốc 1,3 USD/GBP. Ngoài ra, việc FED tuyên bố duy trì chính sách hiện tại cho thấy triển vọng kinh tế Mỹ vẫn lạc quan, hỗ trợ đồng USD tăng giá mạnh, chỉ số DXY tăng liên tục và dừng ở 99,12.

Như vậy, các đồng tiền của các quốc gia trên thế giới đều đang biến động, không hẳn đều giảm. Trong khi đó, dự trữ ngoại tệ của Việt Nam đang liên tục phá đỉnh, nguồn ngoại tệ từ đầu tư, nhập khẩu, kiều hối… vẫn đổ về sẽ đủ dư địa để ổn định thị trường ngoại hối.

Nhìn từ quan điểm muốn nới lỏng chính sách tài khóa, có thể thấy hiện Ngân hàng Nhà nước chưa hạn chế khả năng tiếp cận tín dụng của doanh nghiệp, cũng như các ngân hàng. Khi chính sách chưa siết chặt, đặt vấn đề nới lỏng lại thành không phù hợp.

Mặt khác, nếu nới lỏng bằng mở rộng cung tiền, nới tăng trưởng tín dụng, thì câu hỏi đặt ra là liệu nền kinh tế có hấp thụ được hết? Có lẽ, ít doanh nghiệp dám đẩy mạnh vay vốn để mở rộng kinh doanh vào thời điểm này. Trong khi đây là thời điểm đầu năm, tăng trưởng tín dụng bắt đầu từ con số 0, không có trở ngại cung ứng vốn cho nền kinh tế.

Cần nhấn mạnh, thị trường hiện nay không thiếu tiền. Cập nhật đến ngày 18/2, bằng số dư tín phiếu đang lưu hành, Ngân hàng Nhà nước còn phải hút bớt  96.000 tỷ đồng từ thị trường về để… “cất kho”.

Với diễn biến này, có lẽ một gói kích cầu cũng chưa thực sự cần thiết. Vì khi không chảy vào hoạt động sản xuất, nguồn vốn sẽ hướng tới các kênh đầu tư rủi ro như bất động sản, chứng khoán.

Trao đổi với KH&ĐS, một lãnh đạo tại Ngân hàng Nhà nước cho rằng, đến giờ các số liệu chưa thấy có vấn đề, những khó khăn chỉ đang có tính mùa vụ.

“Không phải thấy nóng là lỏng, lạnh thì chặt lại. Tóm lại, phải theo dõi từng ngày, từng giờ, quan sát thêm trong vài tháng tới và đợi số liệu chính xác mới tính được chuyện chính sách tiền tệ mình điều chỉnh như thế nào, có điều chỉnh hay không?”, lãnh đạo này nhấn mạnh.

Theo chuyên gia Lê Xuân Nghĩa: “Gần 10 năm qua, chính sách tiền tệ đã được điều hành rất thành công. Giai đoạn đầu tạo ra nền tảng khá tốt, và giai đoạn sau phát huy được theo định hướng đúng. Chúng ta không có lý do để mất niềm tin dài hạn của nhà đầu tư, mất tiềm năng phát triển dài hạn của nền kinh tế bởi những rủi ro trong ngắn hạn với ảnh hưởng hạn chế”.

Đào Vũ

BẢN DESKTOP