Dọc đường

Bóng giếng Hà Nội – Kỳ 9: Giếng đan sa luyện linh đơn

Quan niệm Lão giáo cho rằng, linh đơn có thể giúp con người cải lão hoàn đồng, trường sinh bất tử. Bởi vậy, ở Quán Linh Tiên còn tồn tại một giếng cổ, tục gọi là giếng đan sa dùng lấy nước luyện linh đơn.

Quán Linh Tiên thuộc làng Cao Thượng xã Đức Thượng (Hoài Đức), đây là một trong hai quán hiếm hoi còn sót lại cùng với Dương Lâm Quán ở làng Đa Sỹ (Hà Đông).

Giếng cổ trong hậu cung.

Quán khác chùa

Quán Linh Tiên vẫn còn đó, vừa sừng sững vừa u tịch mung lung giữa làng quê Cao Thượng. Người thổ địa nơi đây vẫn gọi đó là quán, mặc dù nay người ta đã thay quán bằng chùa: Chùa Linh Tiên.

“Trước đây, phần miệng giếng hoàn toàn bằng đất. Sau này, khi chuẩn bị tôn tạo thì các nhà khoa học đã thống nhất làm bằng đá để bảo tồn và giữ cho nguyền nước được sạch. Quán Linh Tiên là một trong những quán cổ và hiếm. Quán được Nhà nước công nhận di tích từ năm 1990”.

Thầy Thích Đàm Chính, trụ trì Quán Linh Tiên

Trước khi khám phá những kỳ ẩn trong hậu cung với giếng cổ thông thiên, thầy Thích Đàm Chính, vị trụ trì đáng kính giới thiệu thế này:  Linh Tiên Quán có từ rất lâu đời (khoảng những năm 111 TCN) và gắn với nhân vật Lữ Gia, vị tể tướng của nước Nam Việt.

Khi nhà Hán có ý định xâm lược Nam Việt thì triều đình có ý đầu hàng. Lữ Gia đã phản đối. Năm 111 TCN, nhà Hán đánh chiếm Nam Việt, Lữ Gia đã dẫn đầu vài trăm người chạy trốn ra biển, lấy thuyền đi về hướng Tây.

Theo nhà nghiên cứu văn hóa Nguyễn Đăng Duy thì Lữ Gia đã dừng chân tại Đức Thượng để tu tiên và luyện đan. Hiện nay, trong quán có treo một biển gỗ viết bằng chữ Hán và được giải thích là chép từ bia đá trước đây, trong đó có đoạn viết: “Nguyên Triệu thời, Lữ Nam đế hưng Gia, giá du hành chí thử hương, hiến tiên nhân biến kỳ, ư thự đế liên giá bái kệ tiên nhân, tiên nhân ngộ nhận thắng thiệu. Nhân sự. Lã Gia lập Linh Tiên Quán”.

Tục truyền đây là huyệt đan sa.

Bên thành giếng có cửa dẫn vào một cái hang bên trong.

Lời ấy, tạm dịch: Vào thời Triệu Nam đế có ông Lữ Gia, đi chơi đến làng này, thấy tiên đang đánh cờ liền quỳ xuống bái lạy, người tiên nhân thấy thế bay lên trời. Nhân chuyện này, Lữ Gia cho lập Linh Tiên Quán, quán về tiên linh thiêng.

Người địa phương kể rằng, theo truyền thuyết thì Quán Linh Tiên trước đây là một vùng đất rất cao nhờ phù sa bồi đắp, lại có núi Quách Trang Xá ăn vào chùa Thầy nên có nhiều đan sa. Lữ Gia thấy thế đã lưu lại nơi này để luyện đan.

“Trải qua thời gian, đạo Phật du nhập vào nước ta rồi hình thành thế chân vạc giữa Nho giáo, Phật giáo và Lão giáo mà gọi chung là Tam giáo. Trong đó, đạo Phật mạnh nhất và được nhiều người theo. Cho nên, Quán Linh Tiên không chỉ thờ Lão Tử và các vị thần tiên mà còn thờ Phật. Quán thành chùa là ở chỗ đó, chứ thực ra, quán và chùa là khác nhau”, thầy Thích Đàm Chính cho hay.

Tận mắt giếng cổ

Thầy Thích Đàm Chính dẫn chúng tôi đến hậu cung, nằm ngay thượng điện, dưới ban thờ là chiếc giếng cổ kính mà tôi dám chắc, nếu khi lập quán là đào giếng thì chí ít, giếng ấy cũng trên 2000 năm có lẻ.

Từ ngoài nhìn vào, miệng giếng bằng đá với những nét đục sắc gọn. Nhưng đó không phải điểm nổi bật, vì đá ấy với vết chạm ấy chỉ là mới đây, chưa có lắm những rêu phong, những vết tích của cổ xưa xa ngái.

Thầy Chính cho rằng, các đạo sĩ dùng nước giếng này để luyện linh đan

Mở nắp giếng, ngó nhìn xuống dưới mới thấy những kỳ ẩn sâu xa. Giếng nhỏ, đường kính chỉ khoảng hơn một mét nhưng sâu hoắm. Tính từ bề mặt miệng giếng xuống bề mặt của nước là không dưới 10m.

Nhưng đó mới là phần nổi của tảng băng. Bởi theo thầy Thích Đàm Chính, giếng này còn được gọi với hai cái tên khác: Một là giếng Ngọc, hai là giếng thông thiên. Giếng Ngọc là vì sao? Xin được nói phần dưới. Còn giếng thông thiên thì rõ hẳn là đây.

“Xưa, các cụ trong làng muốn biết giếng thông ra đâu, với mạch nước nào nên đã đánh dấu quả bưởi rồi thả xuống. Sau vài ngày, các cụ tìm thấy quả bưởi ở sông Hồng. Điều này được chứng minh một lần nữa vào thời mới đây khi một số nhà khoa học làm điều tương tự, và kết quả cũng cho thấy, giếng thông với sông Hồng”, thầy Chính khẳng định.

Giếng thông thiên cũng được hiểu như một động không đáy. Xung quanh thành giếng là các loại đá cùng gạch nung lâu đời, xếp với nhau ăn khít tạo thành vòng tròn hài hòa. Nhưng dường như, vì thời gian ngâm ủ dưới nước quá lâu, nên đá lẫn gạch kia đã bở ra chuyển màu xám đen.

Nước luyện linh đơn

Như đã nói ở trên, Quán Linh Tiên vốn là nơi để Lữ Gia luyện đơn. Thuật này được các đạo sĩ phô bày ở những chốn thâm u. Quán Linh Tiên lại có mạch nước trong, mát và đủ khoáng chất cho một cuộc luyện đơn bốn chín ngày giống như cách mà Thái Thượng Lão Quân vẫn làm.

Quán Linh Tiên vốn là nơi thờ của Lão giáo.

Thế nên, nước giếng ở hậu cung quán này còn gọi là huyệt đan sa ứng với thủy ngọc, gọi là giếng Ngọc. Vì tương truyền Quán Linh Tiên là lò luyện tiên đan nên giếng này cũng được giữ gìn cẩn thận.

Trên thượng điện còn lưu đôi câu đối cổ: “Địa khai đan huyệt thiên thu ngọc tỉnh bá phương danh/Thiên thông trác khí cổ lai tiên quán truyền cựu tích”. Nghĩa là: Đất mở huyệt luyện đan, ngàn năm thành giếng ngọc rộng mở tiếng thơm/Trời thông bầu khí đẹp, tự cổ thành quán tiên truyền lưu tích cũ.

Ngày nay, nước giếng ấy vẫn được dùng. Thậm chí, có người cho rằng, nước giếng Ngọc có thể chữa bệnh, xin con trai được hoàng tử, xin con gái được công chúa. Nhưng xem ra, chúng ta chỉ nên coi đó như một câu giai thoại.

Không giống với giếng thông thường, giếng đan sa này còn có một cái hang rộng đủ chứa 5 người lớn. Phía lưng chừng giếng là cửa vào hang. Cửa này hình hàm ếch, nhỏ nhưng đủ để người chui qua.

Thầy Thích Đàm Chính cho biết, thời kháng chiến chống thực dân Pháp, quân du kích đã dùng giếng làm nơi ẩn nấp. Khi địch phát hiện có người trong quán, mới hô hào lùng sục, rất may là chúng soi đèn xuống giếng không phát hiện ra cái hang.

Quán Linh Tiên được tu tạo từ đời nhà Mạc (1584) tiêu biểu cho một quán Đạo giáo. Trên thượng điện là tượng Tam Thanh, phía dưới là các tượng Cửu Thiên, Huyền Mẫu và Trấn Vũ Thánh. Giếng sâu trong hậu cung mà tục truyền là huyệt đan sa, vốn là lò luyện đan của các đạo sĩ. Giếng có giá trị cả về mặt sử học lẫn tâm linh”.

Nhà nghiên cứu Minh Nhương

(Còn nữa)

Trần Hòa

BẢN DESKTOP