Chữa bệnh không dùng thuốc

Bổ sung thực phẩm chứa lithi chống stress

  • Tác giả : NHật Hà
(khoahocdoisong.vn) - Lithi (Li) có tác dụng ức chế những xung lực thần kinh, làm cho con người tránh stress, không bị kích động, cảm thấy lòng thanh thản.

Giảm đau và an thần

PGS.TS Trần Đáng, Nguyên Cục trưởng Cục an toàn thực phẩm (Bộ Y tế) cho biết, có một số nguyên tố kim loại, mặc dù chưa được khoa học khám phá hết mọi tính chất, kể cả khả năng làm cho cơ thể con người bị ngộ độc, nhưng đã được các thầy thuốc sử dụng từ lâu vì tính hiệu quả của chúng trong việc chữa bệnh.

Ví dụ như việc dùng phức chất nhôm làm thuốc để phủ lên mặt dạ dày của những bệnh nhân đau dạ dày, dùng muối bismuth (Bi) chữa trị các rối loạn về tiêu hóa, dùng muối vàng điều trị một số chứng thấp khớp, dùng bạch kim điều trị ung thư và dùng Li để chữa trị một số bệnh về tâm thần.

Lithi tên khoa học là lithium, có ký hiệu là Li, là nguyên tố nhẹ nhất trong cố các kim loại, được phát hiện từ năm 1817, nhưng mãi tới năm 1949 mới được một bác sĩ người Áo, John Cade, đặc biệt chú ý tới khả năng làm giảm đau và an thần.

Theo PGS.TS Trần Đáng, Li không phải là một nguyên tố cần thiết cho sự hoạt động của cơ thể nhưng có ảnh hưởng đặc biệt tới trạng thái tâm thần. Li tác động đến dòng natri chảy vào các tế bào thần kinh và cơ bắp trong cơ thể. Natri ảnh hưởng đến sự kích thích hoặc hưng cảm. Li được sử dụng để điều trị các cơn hưng cảm do  trầm cảm. Triệu chứng hưng cảm bao gồm tăng động, nói nhanh, phán đoán kém chính xác, giảm nhu cầu ngủ, hung hăng và giận dữ.

Hai bác sĩ Đan Mạch là Schou và Baastrup là những người đầu tiên đã sử dụng từ năm 1954 những chất muối Li để chữa trị chứng trầm uất. Từ đó trở đi, nhiều nhà khoa học khác đã tiếp tục nghiên cứu về đặc tính này của Li và còn nhận thấy ở những vùng nào mà nước có nồng độ Li cao thì tính tình người dân ở đây cũng điềm tĩnh hơn, ít có người bị stress và bị thần kinh.

Hiện nay, người ta đã chứng minh được rằng Li có tác dụng ức chế những xung lực thần kinh, làm cho con người tránh stress, không bị kích động, cảm thấy lòng thanh thản. Bởi vậy, Li còn sử dụng làm thuốc an thần, chế ngự sự thèm muốn của người nghiện rượu, thuốc lá, ma túy, người có chứng thèm ăn luôn miệng, ăn nhiều của ngọt...Liều Li thấp có thể ngăn ngừa sự suy giảm nhận thức, chẳng hạn như những gì xảy ra với bệnh Alzheimer...

Tốt nhất là dùng thực phẩm tự nhiên

PGS.TS Trần Đáng nhấn mạnh, dùng thực phẩm tự nhiên không gây ra các phản ứng tiêu cực. Hầu hết các thực phẩm chỉ chứa một phần nghìn milligram. Li có nhiều trong nước, trong một số loại động vật, rau và hạt. Chẳng hạn, trong động vật Li tập trung ở động vật giáp xác và nhuyễn thể, và một số lượng rất nhỏ ở cá. Điều này bao gồm tôm, tôm hùng, sò và sò điệp. Sữa, trứng và thịt cũng có chứa một lượng nhỏ các chất khoáng.

Li có nhiều trong rau như rau xà lách, rau diếp. Các loại đậu và bao gồm đậu lăng khô, đậu, đậu lăng và đậu nành có chứa một lượng Li cao nhất có trong thực phẩm. Rau quả như một thể loại chung, có chứa ít Li hơn cây đậu nhưng vẫn là nguồn. Tảo bẹ thực vật biển, ngô xanh và mù tạt từ hạt mù tạt tương cũng có chứa một lượng Li.

Các loại ngũ cốc đặc biệt là lúa mì và các sản phẩm từ gạo, chứa một lượng Li nhỏ. Cây hổ trăn là một nguồn nổi tiếng của Li, cũng như cà phê. Trái cây và hạt khô cũng chứa lượng Li nhỏ.

PGS.TS Trần Đáng phân tích, sự hấp thu Li được thực hiện ở ruột, được chuyển nhanh vào máu. Huyết thanh bình thường có chứa lượng Li dưới mức 60µg/l. Nồng độ Li ở tủy sống chỉ bằng 40% nồng độ Li trong máu và cao nhất ở thận. Hiện tượng Li thầm vào các tế bào não xảy ra rất từ từ. Lượng Li của các thuốc được bổ sung vào cơ thể sẽ bị thải ra gần hết trong vòng 24 giờ qua đường nước tiểu, đường tiêu hóa và mồ hôi.

Liều lượng bổ sung thường thấp hơn liều lượng Li dùng để chữa bệnh rất nhiều (ít hơn 1000 lần). Việc cơ thể thừa Li có thể làm cho người bệnh cảm thấy chóng mặt, nôn ói, người run, lực cơ bắp bị suy yếu, nhịp tim rối loạn. Để tránh các hiện tượng trên, các bác sĩ thường yêu cầu bệnh nhân xét nghiệm máu để theo dõi tỷ lệ Li trong máu và chỉ định liều lượng hợp lý.

Việc dùng thuốc có Li trong thời gian dài có thể làm người bệnh buồn ngủ, suy giảm khả năng tình dục và tăng cân. Li có thể thấm quá nhau thai nên phụ nữ đang mang thai không nên dùng thuốc có Li.

Việc xét nghiệm trên cơ thể các thú vật nuôi trong phòng thí nghiệm cho thấy, Li có khả năng kích thích sự hoạt động của các virus HIV. Bởi vậy nên các thuốc có Li cũng không thích hợp với các đối tượng đã có kết quả xét nghiệm máu HIV dương tính.

Nhật Hà

NHật Hà

BẢN DESKTOP